TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP VÀ VẤN ĐỀ QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN CÔNG DÂN
“Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người”. Hiểu một cách khái quát thì đó là “những quyền bẩm sinh, vốn có của con người mà nếu không được hưởng thì chúng ta sẽ không thể sống như một con người”. Với ý nghĩa đó, quyền con người là tự nhiên, vốn có, không do chủ thể nào ban phát; được áp dụng bình đẳng với tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc, trong mọi hoàn cảnh, không thay đổi theo thời gian và không phụ thuộc vào biên giới quốc gia, lãnh thổ hay tư cách cá nhân, môi trường sống của họ.
Chủ nghĩa Mác - Lênin khi bàn về quyền con người đã thể hiện rõ sự thống nhất trong tư tưởng của các ông về con người và về quyền của con người; về tự do và dân chủ; về con đường đấu tranh để giải phóng con người và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Con người theo C.Mác “là tổng hòa những quan hệ xã hội” và “tự do là cái vốn có của con người đến mức mà ngay cả những kẻ thù của tự do; cũng thực hiện tự do, trong khi chống lại việc thực hiện đó, chúng muốn chiếm lấy, với tư cách là vật trang sức quý giá nhất, cái mà họ đã bác bỏ, với tư cách là vật trang sức của bản tính loài người”…Nói thế để thấy rằng, quyền tự do và bình đẳng là quyền cốt lõi nhất của con người, nhưng các quyền đó không thể và không được thực thi trong một xã hội/quốc gia/dân tộc đang bất bình đẳng - đang chịu sự bất bình đẳng - đang bị thống trị bởi một quốc gia khác. Nói thế cũng để thấy rằng, Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên khi đất nước đang đắm chìm trong đêm trường nô lệ dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp; khi mà ở nơi đó, mọi quyền sống của con người và quyền dân tộc đều không được thực thi, nên Người nhận thức sâu sắc rằng, ở nơi đó những người dân bị mất nước không có quyền con người và càng không có quyền công dân.
Yêu nước và thương dân, nguyện vọng thiết tha của Hồ Chí Minh là: "Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu" và “Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập”. Vì thế, Hồ Chí Minh đã rời Tổ quốc ra đi tìm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân mình khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân. Xuất phát từ điều kiện cụ thể của đất nước và kế thừa có chọn lọc những nội dung hợp lý của tư tưởng nhân quyền hiện đại, tiến bộ của nhân loại, đặc biệt là vận dụng sáng tạo tư tưởng giải phóng con người, giải phóng xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin, những nội dung quan trọng nêu trên được khẳng định trong Chánh cương vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được chính Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân Việt Nam kiên cường đấu tranh và giành lại bằng cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945.
Tuyên ngôn độc lập do Hồ Chí Minh soạn thảo và tuyên bố ngày 2/9/1945 trước toàn dân và thế giới không chỉ tuyên bố sáng lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khẳng định tính hợp pháp của nước đó và Chính phủ lâm thời do Người đứng đầu mà còn mang một giá trị đặc biệt khi diễn ra đúng thời điểm chiến tranh thế giới thứ hai vừa kết thúc. Tuyên ngôn độc lập không chỉ tuyên bố đanh thép: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!” mà còn đi đến khẳng định rằng, “nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”…
Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam do Hồ Chí Minh đọc ngày 2/9/1945 nhưng ngày 10/12/1948, Đại hội đồng Liên hợp quốc mới thông qua Tuyên ngôn về quyền con người (30 điều). Đó cũng chính là nhiệm vụ mà tất cả các dân tộc và tất cả các quốc gia trên thế giới đều cần phải thực hiện. Với Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh đã thêm một lần khẳng định quyền cơ bản của con người và tuyên bố về quyền của dân tộc Việt Nam - với tư cách là một quốc gia độc lập trong cộng đồng các dân tộc trên thế giới; đồng thời cho thấy các quyền cơ bản của con người và quyền công dân sẽ được thực thi tại một nước Việt Nam độc lập.
HIỆN THỰC HÓA QUYỀN CON NGƯỜI VÀ QUYỀN CÔNG DÂN Ở VIỆT NAM
Bản Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam không dài, chỉ có 49 câu, với hơn một ngàn chữ, song lại chứa đựng những nội dung vô cùng lớn, ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Không chỉ khai sinh một nhà nước Việt Nam mới, đưa dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội, Tuyên ngôn độc lập còn là bản tuyên ngôn về nhân quyền, về thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh vì quyền bình đẳng thiêng liêng giữa các dân tộc và mỗi con người dưới sự lãnh đạo của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Với ý nghĩa đó, quyền dân tộc tự quyết của Việt Nam là chính đáng; quyền con người mà nhân dân Việt Nam được thụ hưởng cũng là chính đáng và đương nhiên quyền công dân của mỗi người dân/công dân Việt Nam được thực thi ở một nước Việt Nam độc lập, tự do cũng là tất yếu.
Theo đó, tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: Chính trị, kinh tế, văn hóa (Điều 6). Công dân Việt Nam đều được bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình (Điều 7). Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện (Điều 9). Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận, tự do xuất bản; tự do tổ chức và hội họp; tự do tín ngưỡng; tự do cư trú đi lại trong nước và nước ngoài (Điều 10). Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam, không ai được xâm phạm một cách trái luật (Điều 11). Quyền tư hữu của công dân Việt Nam được bảo đảm (Điều 13). Chế độ bầu cử là phổ thông đầu phiếu (Điều 17). Tất cả công dân từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt trai gái đều có quyền bầu cử trừ những người mất trí và những người mất quyền công dân. Người ứng cử phải là những người có quyền bầu cử (Điều 18). Nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mà mình đã bầu ra (Điều 20). Người dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia (Điều 21)…
Cùng với thời gian, Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng có thay đổi và đi liền cùng đó, trong Hiến pháp sửa đổi năm 1959, quyền con người, quyền công dân được chế định trong chương III: Quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân cũng được mở rộng dân so với Hiến pháp 1946 ở một số quyền của công dân như quyền nhà ở, quyền làm việc, quyền nghỉ ngơi, quyền học tập và tự do nghiên cứu khoa học, hoạt động văn hoá, quyền khiếu nại tố cáo...Trong Hiến pháp 1992, chương V: Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, Điều 50 ghi rõ: Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật - thừa nhận cả hai khái niệm quyền con người, quyền công dân…
Trong Hiến pháp năm 2013, Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân từ Chương V trong Hiến pháp năm 1992 đã chuyển về Chương II: Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (giống Chương II, Hiến pháp năm 1946). Trong đó, có sự phân biệt giữa quyền con người và quyền công dân. Cụ thể như: Quyền bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trước pháp luật (Điều 16). Quyền không bị trục xuất, giao nộp cho nước khác (Khoản 2, Điều 17). Không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm (Khoản 1, Điều 20). Quyền bảo vệ đời tư (Điều 21). Quyền có nơi ở hợp pháp (Điều 22). Quyền tiếp cận thông tin (Điều 25); quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội (Điều 28). Quyền bình đẳng giới (Điều 26). Quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 29). Quyền được xét xử công bằng, công khai và không bị coi là có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án (Điều 31). Quyền sở hữu tài sản tư nhân (Điều 32). Quyền bảo đảm an sinh xã hội (Điều 34). Quyền có việc làm (Điều 35). Quyền được sống trong môi trường trong lành (Điều 43)… Các điều này đáp ứng đầy đủ nhu cầu chính đáng và ngày càng tăng về quyền con người, quyền công dân đã được nêu ra trong Hiến chương Liên hợp quốc và Tuyên ngôn thế giới về quyền con người.
Có thể thấy, quyền con người, quyền công dân, mối quan hệ giữa quyền con người và quyền công dân Hồ Chí Minh đã nêu ra/thể hiện trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945 không chỉ được thực thi tại Việt Nam mà còn ngày càng được điều chỉnh, bổ sung, mở rộng, quy định rõ ràng và hoàn thiện hơn trong các bản Hiến pháp; trong chủ trương, chính sách của Đảng và hệ thống pháp luật của Nhà nước. Trong thực tế, thể chế hóa Hiến pháp năm 2013 và thực thi các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã gia nhập, ký kết, Việt Nam đã bổ sung, sửa đổi và ban hành nhiều văn bản luật, pháp lệnh liên quan đến quyền con người, quyền công dân, phù hợp với Hiến pháp năm 2013. Trong đó, phải kể đến Luật đầu tư 2014, Luật doanh nghiệp 2014, Luật trưng cầu dân ý 2015, Luật quy hoạch 2017, Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa 2017, Luật tiếp cận thông tin 2018…
Có thể nói, 75 năm trôi qua kể từ khi Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã nỗ lực để hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, quyền công dân; từng bước chế định, hoàn thiện, xác định và quy định rõ ràng hơn về quyền con người và quyền công dân. Việc thực thi 2 quyền này ở Việt Nam chính là nhằm để mỗi người dân/công dân Việt Nam ngày càng được thụ hưởng tốt hơn quyền con người, quyền công dân gắn với quá trình xây dựng và bảo vệ, phát triển đất nước, nhất là trong 35 năm đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng. Minh chứng sinh động này cũng cho thấy, không chỉ dừng chỉ ở đó mà Việt Nam còn đóng góp tích cực vào hoạt động của Hội đồng Bảo an, Hội đồng Nhân quyền, Hội đồng Kinh tế - xã hội, Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021... và là thành viên có trách nhiệm với Liên hợp quốc để hiện thực hóa quyền con người, quyền công dân trong cộng đồng các quốc gia trên thế giới./.
(Bài viết của Ths. Văn Thị Thanh Hương- Trưởng ban Sách Nhà nước và Pháp luật, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật đăng trên Tạp chí của BTGTƯ)