|
Hình tượng Lợn trong tranh dân gian |
Heo là một loài vật có hình dáng tròn trịa mũm mỉm, béo tốt ủn ỉn và hiền từ, khác hẳn với các loài thú dữ hại người, hại vật. Trong chuỗi 12 con giáp, ba con vật cuối cùng (gà, chó, và heo) có mối liên hệ gần gũi với con người nhất. Heo là một con vật mà chỉ nói đến tên, chúng ta cũng có thể cảm thấy gần gũi; một con vật mà hình ảnh của nó đã đi vào thơ ca, hội họa dân gian và là biểu tượng văn hóa tinh thần. Trong tiếng Việt hằng ngày, heo cũng thường được nhắc đến, nào là "mập như heo", "ngu như heo", "lười như heo", "ăn như heo", "ngủ như heo", "sướng như heo", và "dơ như heo", vv... Nói chung là các từ ngầm so sánh để diễn tả một ai đó không làm gì cả, khỏi phải động não, chẳng hề căng thẳng, mà vẫn "phây phây", tốt tướng, hưởng thụ, nhàn nhã. Nhưng đứng trên phương diện sinh học mà nói, thật ra heo không tối dạ; trái lại, còn rất thông minh, dễ dạy, ngoan hiền và thân thiện.
Heo là con vật có một mối liên hệ lâu đời nhất với con người. Ở Việt Nam và Trung Quốc, heo gần gũi đến độ được nhân cách hóa qua nhân vật hư cấu nửa người nửa heo Trư Bát Giới trong truyện nổi tiếng “Tây Du Ký”. Theo văn hóa Việt Nam hay Châu Á, heo là biểu trưng của tiền bạc, sự phồn thịnh, sung túc, tài lộc, nên nhiều nghệ nhân đã đúc tượng heo vàng, lịch ảnh heo, heo ống tiết kiệm làm giàu, tranh dân gian để thể hiện sự chúc tụng năm mới nhiều may mắn, con cháu đông vui, sinh sôi nảy nở, phúc lộc dồi dào. Heo còn là biểu tượng của vật tế lễ cúng bái…
Ở các bán đảo Thái Bình Dương, loại heo không lông Kapia thường được dùng làm con vật để tế thần, vì người ta tin rằng heo có linh hồn, sẽ linh thiêng. Ở Âu châu thời cổ đại, heo là con vật được nữ thần Demeter (thần sinh sản trong thuyết Hy Lạp Cổ Đại) ưa thích. Bởi lẽ, heo là biểu tượng cho sự sinh sản con cái sung túc, nên phụ nữ hay mua heo mạ đồng vàng để trong nhà hay phòng riêng để cầu mắn con. Người thổ dân da đỏ ở Mỹ cũng xem heo là biểu tượng của sự thịnh vượng và may mắn. Ở Đức, tham dự vào buổi tiệc có thịt heo vào đêm Noel có ý nghĩa ngăn ngừa quỉ thần và đem lại thịnh vượng, tiền tài cho năm mới.
Heo là con vật thuộc 12 con giáp, rất thân thiện và gần gũi với con người. Nó sướng nhất vì chỉ ăn và ngủ, khỏi phải lo lắng điều gì. Vì heo vốn nhàn nhã, sống vô tư, không lo nghĩ, tròn trịa trù phú, mũm mĩm phồn thực, phúc lộc, nên năm heo sẽ mang lại nhiều niềm vui, vận may, tụ tài lộc, lợi nhuận sung túc thoải mái cả tinh thần và vật chất đến với mọi người.
Heo trong ẩm thực:
Từ xa xưa, thịt heo đã là một thực phẫm cho loài người. Ngoại trừ các dân tộc theo đạo Hồi hoặc đạo Do Thái không ăn thịt heo, thì thịt heo là nguồn thực phẫm quý báu, bổ dưỡng và dễ tìm. Ở Việt Nam, trong tất cả các loại thịt thông dụng thì có lẽ thịt heo được dùng nhiều nhất và có thể chế biến ra hàng trăm món khác nhau để dùng trong những yến tiệc sang trọng cho đến những bữa cơm bình thường. Và hầu hết những phần của cơ thể con heo: giò heo, da heo, lỗ tai heo, lòng heo ... cũng được chế biến thành các món ăn rất độc đáo.
Bên cạnh những lợi ích về mặt dinh dưỡng, ngày nay, trong y học, các nhà khoa học đã chứng minh một số bộ phận của heo có thể được sử dụng để thay thế những bộ phận hư hỏng của con người . Đây là phương pháp dùng bộ phận của một chủng loại này để ghép vào chủng loại khác, đó chính là phương pháp "ghép dị chủng".
Trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật: Heo xuất hiện trong các tác phẩm văn học, tục ngữ, ca dao, trong điêu khắc, tranh, ảnh… Truyện dân gian Trung Quốc “Cuối cùng ai đẹp nhất” phản ánh tính tương đối của sự vật, mong con người khiêm tốn, nhận thức đúng về mình qua hình tượng con lợn tranh luận với con quạ, quyết mình phải đẹp nhất. Truyện Vua Heo ở Việt Nam kể về một người không có tài đức gì đặc biệt nhưng nhờ có quý tướng thiên tử trời cho mà gặp hết vận may này đến vận may khác, vượt qua mọi gian nguy, lên làm vua. Tục ngữ, ca dao về heo cũng rất phong phú, phản ánh nhiều mặt của đời sống người Việt, như: hôn nhân,chống tham nhũng,chống mê tín dị đoan, chẳng hạn như:
- Miếng thịt, bịt miệng
- Số cô chẳng giàu thì nghèo
Ngày ba mươi tết thịt treo trong nhà.
- Mẹ em tham thúng sôi rền
Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng
Em đã bảo mẹ rằng đừng
Mẹ hấm, mẹ ứ mẹ bưng ngay vào.
Hình tượng heo cũng được phác họa trong các ngôi chùa, đình làng, với những con heo béo ục ịch được tạc trên đá, trên gỗ, thể hiện cuộc sống ấm no, thanh bình; heo cũng được phác họa trong lăng mộ Hoàng hậu Vua Lê Thánh Tông – Nguyễn Thị Ngọc Huyên, hay trên vạc đồng của các chúa Nguyễn, hiện đặt tại sân sau của Điện Thái Hòa (thành phố Huế); đặc biệt là trong các bức tranh dân gian của các nghệ nhân làng Đông Hồ: Tranh Đông Hồ gà, lợn nét tươi trong/ Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp. Cùng với thời gian, hình tượng con heo trong mỹ thuật được nhiều người vẽ nặn hơn, dù khai thác dưới góc độ nào thì họ cũng không kỳ thị nó như trước nữa....
· Những năm hợi đáng nhớ trong lịch sử:
Suốt chiều dài lịch sử, dân tộc ta đã trải qua nhiều thăng trầm trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Nhân dịp Xuân Kỷ Hợi 2019, xin điểm lại một số sự kiện mang tính bước ngoặt diễn ra trong năm Hợi qua các thời kỳ.
1. Năm Kỷ Hợi 939: Chấm dứt 1.000 năm chống Bắc thuộc
Sau chiến thắng Bạch Đằng lịch sử (năm 938) đánh tan quân Nam Hán, năm Kỷ Hợi (939) Ngô Quyền lên ngôi vua (xưng vương), đóng đô ở Cổ Loa. Sự kiện này chấm dứt thời kỳ hơn 1.000 năm chống Bắc thuộc, bắt đầu mở ra thời kỳ phát triển của quốc gia phong kiến độc lập và lớn mạnh nhanh chóng của dân tộc Việt Nam.
2. Năm Đinh Hợi 987: Lễ tịch điền khai mở mùa vụ mới
Mùa xuân năm 987, vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn) cùng văn võ bá quan ra cày ruộng ở Đọi Sơn (huyện Duy Tiên, Hà Nam ngày nay) với dụng ý khuyến khích dân chúng chăm lo việc cấy cày, phát triển nông nghiệp. Kể từ đó, hằng năm vào đầu xuân, nhà vua đích thân ra đồng cày ruộng, khai mở mùa vụ mới. Tục này được gọi là Lễ tịch điền.
3. Năm Đinh Hợi 1287: Cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ 3
Sau 2 lần thất bại trước quân dân nhà Trần (1258, 1285), nhà Nguyên Mông vẫn nuôi dã tâm xâm chiếm nước ta lần nữa.Theo Đại Việt sử ký toàn thư, mùa xuân năm Đinh Hợi 1287, Thoát Hoan lại mang 50 vạn quân xâm lược nước Đại Việt. Chỉ sau 4 tháng (từ cuối tháng 12/1287 đến tháng 4/1288), quân dân nhà Trần đã một lần nữa khiến quân Nguyên Mông thảm bại bằng chiến thắng lừng danh muôn thuở: Cuộc đại thủy chiến trên sông Bạch Đằng. Sau trận thua ở Bạch Đằng, nhà Nguyên phải từ bỏ âm mưu xâm lược nước ta.
4. Năm Tân Hợi 1911: Bác Hồ bắt đầu hành trình tìm đường cứu nước
Tháng 6/1911, từ cảng Sài Gòn, Nguyễn Tất Thành (tức Chủ tịch Hồ Chí Minh) lên con tàu Latouche Tréville của Pháp làm nghề phụ bếp với tên “Văn Ba”, bắt đầu cuộc hành trình tìm đường cứu nước. Sau 30 năm bôn ba nước ngoài, mùa Xuân năm 1941, Người về nước và cùng với các đồng chí của mình lãnh đạo thành công công cuộc giành độc lập dân tộc vào tháng Tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là CHXHCN Việt Nam).
5. Năm Đinh Hợi 1947: Chiến thắng Việt Bắc - Thu Đông
Chiến dịch Việt Bắc-Thu Đông 1947 (từ 7/10 đến 22/12/1947) là một chiến dịch quân sự do quân đội Pháp thực hiện nhằm phá tan cơ quan đầu não kháng chiến và tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta ở chiến khu Việt Bắc. Với tinh thần quả cảm, quân và dân ta đã đập tan âm mưu chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của Pháp. Đây cũng là chiến thắng lớn ở cấp chiến dịch đầu tiên của quân, dân ta trong 9 năm kháng chiến chống Pháp.
6. Năm Kỷ Hợi 1959: Bước ngoặt của cách mạng miền Nam
Cuối năm 1958 đầu năm 1959, cách mạng miền Nam gặp nhiều tổn thất do chính sách “tố Cộng, diệt Cộng” của Mỹ-Diệm. Lúc này phương châm đấu tranh chính trị đơn thuần hay chính trị kết hợp với vũ trang tự vệ không còn phù hợp. Trước tình hình đó, tháng 1/1959, Ðảng triệu tập Hội nghị lần thứ 15, quyết định một vấn đề quan trọng: Chuyển cách mạng miền Nam từ đấu tranh chính trị sang đấu tranh vũ trang. Nghị quyết 15 như một luồng sinh khí mới thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh của nhân dân miền Nam mà đỉnh cao là phong trào Đồng khởi (cuối năm 1959 đầu năm 1960). Đây là bước ngoặt của cách mạng miền Nam trên con đường tiến tới thống nhất đất nước.
7. Năm Ất Hợi 1995: Việt Nam gia nhập ASEAN
Ngày 28/7/1995, tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 28 ở Brunei, Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN và trở thành thành viên thứ 7 của tổ chức này. Kể từ đó đến nay, Việt Nam đã tham gia sâu rộng vào tất cả các lĩnh vực hợp tác của ASEAN; đóng góp tích cực và góp phần không nhỏ vào sự phát triển của ASEAN.
8. Năm Đinh Hợi 2007: Việt Nam gia nhập WTO
Kết thúc tiến trình đàm phán trong hơn 10 năm (1995-2006), trong đó có những cuộc đàm phán với những đối tác lớn (EU, Hoa Kỳ), ngày 7/11/2006, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) triệu tập phiên họp đặc biệt của Đại Hội đồng tại Geneva (Thụy Sĩ) để kết nạp Việt Nam là thành viên thứ 150 của tổ chức. Cùng ngày, Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển và Tổng giám đốc WTO Pascal Lamy đã ký Nghị định thư gia nhập WTO của Việt Nam. Ngày 11/1/2007, WTO nhận được quyết định phê chuẩn Nghị định thư gia nhập WTO của Quốc hội Việt Nam. Kể từ dấu mốc lịch sử này, Việt Nam chính thức trở thành thành viên đầy đủ của WTO.